Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2011

Ngôn ngữ Kẻ Chợ, ngôn ngữ xứ Đoài-Xu hướng 2 trong 1



 Ngày kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội đang đến rất gần. Trong những điều mà người Thủ đô gìn giữ, dĩ nhiên phải có ngôn từ. Lời ăn tiếng nói của người Hà Nội ngàn năm vẫn còn đó. Chúng ta phải nhận chân được giá trị của nó và phải chung tay giữ gìn, bồi đắp cho ngôn ngữ Hà Nội giàu và đẹp hơn.



Tiếng Hà Nội - Một phương ngữ đặc biệt
          Kinh thành Hà Nội từ trước đây được phân chia thành 2 phần khá riêng biệt. Khu vực Hoàng Thành là của vua quan, triều thần và cư dân thuộc hoàng tộc. Đây là nơi “thâm nghiêm kín cổng cao tường”. Còn một khu khác, rộng lớn hơn, ta quen gọi “ba sáu phố phường” chính là trung tâm kinh doanh, buôn bán hết sức sầm uất với ngót năm chục phố “hàng” (Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Mắm, Hàng Điếu,…) gắn liền với bằng ấy mặt hàng của các làng nghề hay các lò sản xuất hàng công nghiệp, mỹ nghệ, các đặc sản ăn uống…
Cái tên Kẻ Chợ (người ở chợ, nơi chốn chợ búa) bắt nguồn từ đây, theo nhiều sách vở thì từ này có từ thế kỉ 17. Thứ nhất kinh kì, thứ nhì phố Hiến. Thăng Long rõ ràng là một không gian riêng biệt về địa lí, cư dân, kiến trúc nhà ở, phong tục tập quán … Ngôn ngữ dĩ nhiên cũng vì thế mà “ăn theo”. Có một nét riêng về ngôn từ Kẻ Chợ, nếu xét từ góc độ phương ngữ học.
Việt Nam có 3 vùng phương ngữ chính: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Đó là sự phân chia khái quát dựa trên cơ sở phân vùng địa lí. Thực chất, các tiêu chí phương ngữ cho thấy ta còn có thể chia nhỏ theo các vùng miền.
        Tiếng Hà Nội từ xa xưa đã là một ngôn ngữ khá đặc biệt. Nó là một phân nhánh của phương ngữ Bắc Bộ.
Cũng bởi là một thành phố thủ đô, giao lưu thông thương và hội tụ, Hà Nội tập hợp cư dân ở nhiều vùng. Dân bản địa gốc Hà Nội cũng có nhưng càng ngày càng bị … “lép vế” với số lượng lớn cư dân ở “bốn phương tám hướng” đổ về. Tuy nhiên, tiếng nói của một vùng đất có từ lâu đời thì vẫn giữ nguyên cốt cách.
So với nhiều nơi khác, người Hà Nội nói chuẩn, từng đầy đủ 6 thanh điệu, chỉ không phân biệt 3 âm rung (khi phát âm lưỡi phải rung) là [r], [tr], [s]. Nếu người miền Trung nói rõ: “Trời trong trẻo” thì âm của người Hà Nội là “Chời chong chẻo” (không phân biệt tr/ch); “sạch sành sanh” sẽ phát âm  thành “xạch xành xanh” (không phân biệt s/x);  “rung rinh” thành “dung” (không phân biệt r/d),… (dĩ nhiên, viết chính tả thì vẫn đúng).
Tuy nhiên, người Hà Nội chính hiệu không nói ngọng (lẫn lộn l/n, s/ch…). Về mặt phát âm, tiếng Hà Nội được người nghe thấy hay vì rõ ràng, nhẹ nhàng, âm sắc mềm mại. Bao thiếu nữ Hà Thành đã làm các chàng trai khắp nước “mê hồn” vì thanh âm quyến rũ, nghe mơ màng “như chim hót trên cao” và dù chưa đưa vào văn bản chính thức mang tính pháp quy, nhưng tiếng Hà Nội mặc nhiên được coi là tiếng “chuẩn” trên các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay.
        Sở hữu khá nhiều làng nghề: đúc đồng, mây tre, trồng hoa cây cảnh, chạm bạc, tranh dân gian, … Hà Nội còn có một lượng vốn từ phát sinh từ các làng nghề đó. Từ nghề nghiệp là “đặc sản” của một cộng đồng cư dân cùng nghề. Nó không “bó mình” trong không gian hẹp mà dần dần mở rộng phạm vi sử dụng. Tiếng Kẻ Noi (Cổ Nhuế), Đầm Sét (Thịnh Liệt), Làng Bưởi, Làng Đơ (Triều Khúc),… mặc dù có đặc trưng riêng nhưng rồi  dần dần cũng hoà vào sắc màu chung của Kẻ Chợ náo nhiệt, kinh thành “phồn hoa đô hội”. Kinh thành cũng sản sinh những gia đình có nền nếp gia phong, ăn ở, sinh hoạt, ứng xử … đều hết sức quy củ, có tôn ti thứ bậc và đặc biệt là nói năng nhẹ nhàng, từ tốn … Đó chính là một mặt làm nên cốt cách của người Tràng An: Vàng thì thử lửa, thử than/ Chuông kêu thử tiếng người ngoan thử lời.
Tiếng Hà Nội với âm sắc, âm vực, ngữ điệu và đặc biệt là lối dùng từ “riêng rất riêng” của họ đã trở nên một tài sản “độc nhất” của đất kinh kì xưa. Và sau này, cốt cách ấy dù có bị pha tạp, mai một nhưng không thay đổi về căn bản. Dù có đi bốn phương trời, người ta vẫn không quên Hà Nội thân thương với mùi hoa sữa, chợ Đồng Xuân, hồ Hoàn Kiếm… và giọng nói Thủ đô.

Tiếng Hà Tây - một nét của văn hoá xứ Đoài
       Hà Tây (cũ) với diện tích rất lớn và một khối cư dân đông hơn hẳn Hà Nội (cũ), rõ ràng là một vùng đất rất đáng tự hào. Gọi là “cửa ngõ Thủ đô” nhưng mảnh đất này từ xưa đã nổi danh với các danh lam thắng cảnh, các công trình kiến trúc gồm thành cổ, đền chùa miếu mạo, nhà cổ và các làng nghề cổ. Chùa Hương, chùa Trăm Gian, chùa Thầy, chùa Mía, chùa Tây Phương, chùa Đậu,.... toàn là những ngôi chùa lớn. Lụa Hà Đông đã trở thành thương hiệu nổi tiếng cả thế giới  chứ không chỉ ở phạm vi quốc nội. Làng cổ Đường Lâm với gạch đá ong “âm thầm mang lời đất” với cảnh quan rất đặc sắc, hữu tình. Rõ ràng, có một văn hoá xứ Đoài hiện hữu từ bao đời chìm sâu vào nền văn hoá Việt.
Ngôn ngữ và tiếng nói người Hà Tây cũng khác. Có khá nhiều vùng đất có sắc thái “thổ ngữ” riêng. Một số vùng phát âm nghe hơi nặng. Một số vùng phát âm “nuốt” thanh điệu. Chẳng hạn, “Con bò vàng” nói thành “con bo vang”, “buổi chiều” thành “buổi chiêu”, … Nhiều lối nói của cư dân bản địa còn khác về từ ngữ. Trong gia đình không gọi bố mẹ, cậu mợ mà gọi thầy u, thầy mẹ, … Đó là hệ quả của lối sống vùng miền, “khép kín” vì thói quen sản xuất “tự cấp tự túc”, phong tục có phần địa phương chủ nghĩa, ít giao lưu… Những “ốc đảo” ngôn ngữ ít có ở nơi thị thành thì ở các vùng nông thôn xưa ta gặp khá nhiều.

Hai trong một: Điều gì sẽ xảy ra?
        Nhiều người Hà Nội (cũ) băn khoăn tự hỏi, không rõ là tiếng Hà Nội ngàn đời với bản sắc riêng kia sẽ thế nào khi Thủ đô mở rộng? Tất nhiên, cư dân tăng (mà tăng mạnh mẽ) sẽ góp phần làm thay đổi diện mạo ngôn ngữ.
       Thực tế, khi chưa sáp nhập Hà Tây vào Hà Nội, một số lượng lớn cư dân ở khắp nơi đã đổ về Thủ đô (qua con đường nhập cư, chuyển công tác, kết hôn…). Nội thành Hà Nội đã mở rộng đến nỗi “ba sáu phố phường” xưa chỉ là một “ốc đảo bảo tồn”. Có còn mấy gia đình thuần “Hà Nội gốc” trong sự giao lưu, biến đổi mạnh mẽ từ bao đời nay?
Năm 2006, luận án TS của Trịnh Cẩm Lan (Đại học KHXH & NV - ĐHQG HN) đã khảo sát ngôn ngữ của một lượng lớn người vùng Nghệ -Tĩnh chuyển cư ra Hà Nội. Kết quả cho thấy có sự “giao thoa và chuyển di” khá rõ rệt giữa ngôn ngữ hai cộng đồng này. Điều đó làm cho tiếng Hà Nội thêm phong phú (về từ vựng, ngữ âm, lối nói…). Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập, sự hoà đồng ngôn ngữ cũng không đứng ngoài so với những sự hoà nhập khác.
       Nhưng sự hội nhập của Hà Tây với Hà Nội sẽ không giống như thế. Vì địa bàn cư dân không thay đổi. Người Quốc Oai vẫn giọng Quốc Oai và cư dân quận Hoàn Kiếm kia vẫn nói năng bình thường như chẳng có điều gì xảy ra. Bức tranh phương ngữ hẹp của Thủ đô sẽ vẫn có sự phân cách nhất định. Và nếu có cô gái nào đó từ Thạch Thất ra Cầu Giấy học đại học thì người ta vẫn nhận ra ngay giọng nói của cô em “không trộn lẫn vào đâu được”.
       Về nhiều vùng Hà Tây cũ, chất giọng riêng của họ vẫn có “độ chênh” so với tiếng Hà Nội và ngôn ngữ toàn dân. Nói như vậy cũng không hẳn là không có sự xô lệch nào đó về ngôn ngữ. Sự sáp nhập hành chính kéo theo sự chuyển cư hợp pháp theo nhu cầu tự nhiên và theo sự điều động cơ cấu cư dân. Cơ cấu lao động thay đổi. Người lao động (lao động tự do, buôn bán nhỏ, lao động thời vụ) từ nhiều nơi tiến về nội thành mạnh mẽ hơn. Người Hà Nội (cũ) mua đất, chuyển nhà ra sinh sống ở các huyện ngoại thành cũng nhiều hơn.
Sự đan xen về mật độ cư dân các vùng làm cho ngôn ngữ bị tác động. Khi hội nhập, xu hướng “đồng hoá trên thế mạnh” sẽ xảy ra. Về vấn đề này, tiếng Tràng An có vẻ đang ở thế thượng phong? Rất có thể vì tiếng Hà Nội gốc có nhiều ưu thế. Sinh hoạt đô thị cũng làm cho sự hoà đồng ngôn ngữ diễn ra dễ dàng hơn. Tuy nhiên, nếu không có thái độ đúng đắn, không có một cơ chế bảo tồn văn hoá ngôn ngữ, rất có thể chúng ta sẽ làm cho tiếng Hà Nội “bị pha tạp”, làm mất đi vẻ đẹp vốn có của mình.
Đó là sự thâm nhập của những cách nói tuỳ tiện, không phù hợp với cách ứng xử ngôn ngữ được coi là hào hoa thanh lịch, như lối nói trống không, xách mé, nói tục, chửi bậy … Rồi cách nói theo ngôn ngữ hiện đại như tiếng lóng, ngôn ngữ mạng (chat), ngôn ngữ đường phố… cũng mau chóng lan truyền, nhất là giới trẻ. Sẽ có nhiều hướng tác động và lan toả lẫn nhau: từ đô thị về nông thôn và ngược lại. Cái hay cũng có và cái dở cũng nhiều…
        Ngày kỉ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội đang đến rất gần. Trong những điều mà người Thủ đô gìn giữ, dĩ nhiên phải có ngôn từ. Lời ăn tiếng nói của người Hà Nội ngàn năm vẫn còn đó. Chúng ta phải nhận chân được giá trị của nó và phải chung tay giữ gìn, bồi đắp cho ngôn ngữ Hà Nội giàu và đẹp hơn. “Ngôn ngữ là linh hồn của mỗi dân tộc” - câu nói của nhà bác học Đức W. Humboldt thật ý nghĩa đối với những người đang vinh dự là cư dân của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

 Theo (Chinhphu.vn) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét